Tại Kỳ họp lần thứ 47 của Ủy ban Di sản Thế giới UNESCO diễn ra ở Paris (Pháp), đúng 13h02 (giờ địa phương) ngày 12/7/2025, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc chính thức được ghi danh là Di sản Văn hóa Thế giới. Đây là Di sản thế giới thứ 9 của Việt Nam, Di sản liên tỉnh thứ hai (sau Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà), và đặc biệt là Di sản dạng chuỗi đầu tiên, trải rộng trên ba địa phương: Quảng Ninh, Hải Phòng và Bắc Ninh. Với sự kiện này, Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò chủ động, tích cực trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, đặc biệt trong nhiệm kỳ 2023-2027 với tư cách thành viên Ủy ban Di sản Thế giới.
Chùa Đồng ở Yên Tử. Ảnh: TTXVN
Phật giáo Trúc Lâm: Cội nguồn tư tưởng và tinh thần dân tộc
Trung tâm tư tưởng của quần thể di sản Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Phật giáo Trúc Lâm, một dòng Thiền thuần Việt mang đậm dấu ấn dân tộc, do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập vào cuối thế kỷ XIII. Không chỉ đơn thuần là một tông phái tôn giáo, Phật giáo Trúc Lâm là sự kết tinh độc đáo giữa hệ tư tưởng Đại thừa của Phật giáo, đạo lý Nho giáo, vũ trụ quan Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Từ cảnh quan linh thiêng của núi Yên Tử, Phật giáo Trúc Lâm đã trở thành một hệ thống triết lý mang tính chỉ đạo về đạo đức, văn hóa và chính trị, góp phần định hình căn cốt tinh thần của nhà nước Đại Việt thời Trần, trở thành một quốc gia vững mạnh, nhân ái và khoan hòa.
Điểm nổi bật nhất của dòng Thiền này chính là tư tưởng tự chủ - hòa hợp - khoan dung, phản ánh sâu sắc bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc Việt trong thời đại đầy biến động. Phật hoàng Trần Nhân Tông là vị minh quân từ bỏ ngai vàng để tìm đến chân lý thiền định, không chỉ truyền dạy tinh thần tu dưỡng bản thân, mà còn đặt nền móng cho một Phật giáo nhập thế, gắn bó mật thiết với vận mệnh quốc gia. Tư tưởng “hòa quang đồng trần”, “phụng sự quốc gia, giác ngộ tự thân” đã dẫn dắt cả một thời kỳ lịch sử phát triển văn minh, nhân đạo, đậm đà bản sắc Việt.
Trải qua hơn 700 năm, Phật giáo Trúc Lâm không chỉ trường tồn trong đời sống tinh thần của người Việt mà còn lan tỏa mạnh mẽ ra thế giới. Theo hồ sơ di sản, hiện nay có khoảng 30 triệu tín đồ, 50.000 tăng ni, hơn 15.000 ngôi chùa Trúc Lâm trên toàn thế giới, trải rộng tại trên 30 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các cơ sở thờ tự tiêu biểu như Thiền viện Trúc Lâm Paris (Pháp), sự hiện diện của Giải thưởng Trần Nhân Tông về Hòa bình (Mỹ) là minh chứng rõ rệt cho sức sống bền bỉ và ảnh hưởng quốc tế của dòng Thiền Việt.
Không chỉ lan tỏa về mặt tín ngưỡng, Phật giáo Trúc Lâm còn truyền cảm hứng cho các giá trị nhân văn toàn cầu, góp phần thúc đẩy đối thoại liên văn hóa, giáo dục vì hòa bình, sống hài hòa với thiên nhiên, và nâng cao ý thức cá nhân trong cộng đồng. Tinh thần “bi - trí - dũng” của Trúc Lâm thiền phái không ngừng được phát huy trong thời hiện đại, khi thế giới đối mặt với khủng hoảng giá trị, xung đột niềm tin và các thách thức môi sinh toàn cầu.
Với vai trò là cội nguồn tư tưởng, nền tảng đạo lý, tinh thần tự cường và niềm tin nhân văn của dân tộc Việt, Phật giáo Trúc Lâm chính là linh hồn sống của quần thể di tích Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc. Việc UNESCO vinh danh di sản này không chỉ là sự công nhận về giá trị vật thể và phi vật thể, mà còn là lời khẳng định sâu sắc về đóng góp tinh thần của Việt Nam vào kho tàng văn hóa nhân loại, nơi những giá trị cổ xưa vẫn tiếp tục soi sáng hiện tại và tương lai của cộng đồng toàn cầu.
Chùa Côn Sơn. Ảnh: Hồ sơ đề cử di sản thế giới
Không gian thiêng hội tụ di sản vật thể và phi vật thể
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là một tổng thể văn hóa, tôn giáo, cảnh quan đặc biệt, trải dài trên ba địa phương: Quảng Ninh, Hải Phòng và Bắc Ninh. Không gian di sản này gồm 12 cụm, điểm di tích tiêu biểu, phản ánh đầy đủ tiến trình hình thành, truyền bá, phục hưng của Thiền phái Trúc Lâm qua nhiều thế kỷ.
Tại Quảng Ninh, không gian Yên Tử - Đông Triều quy tụ các địa danh mang tính chất khai sáng và khởi nguyên: chùa Hoa Yên, chùa Ngọa Vân, Thái Miếu nhà Trần, am Dược, tháp Huệ Quang, bãi cọc Yên Giang là những nơi gắn liền với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử. Đây là khu vực khởi đầu con đường tu hành và triết lý Trúc Lâm với dấu ấn của Phật hoàng Trần Nhân Tông trong những năm cuối đời.
Tại Hải Phòng, các di tích như chùa Thanh Mai, đền Kiếp Bạc, động Kính Chủ, chùa Nhẫm Dương thể hiện vai trò trung gian trong việc phát triển và tiếp nối dòng Thiền. Kiếp Bạc không chỉ là nơi gắn với danh tướng Trần Hưng Đạo, mà còn là trung tâm tổ chức các lễ hội lớn, gắn với thực hành tín ngưỡng dân gian mang chiều sâu văn hóa cộng đồng.
Tại Bắc Ninh, chùa Vĩnh Nghiêm được xem là "kinh đô Phật giáo Trúc Lâm" đã trở thành trung tâm giáo lý và đào tạo tăng ni cho dòng Thiền này. Đây cũng là nơi bảo tồn kho mộc bản Phật giáo cổ đồ sộ được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới. Cùng với đó, chùa Bổ Đà với hệ thống hang động thiền định và vườn tháp cổ cũng góp phần hoàn chỉnh không gian tu học, hành trì và gìn giữ Phật pháp qua nhiều thế hệ.
Các di tích trong quần thể được kết nối với nhau qua hệ thống chùa tháp, am thất, động đá, bia ký, văn bia, mộc bản, tuyến hành hương và lễ hội truyền thống, tạo nên một không gian văn hóa tâm linh liên tục, đan xen giữa di sản vật thể và phi vật thể, giữa tôn giáo và đời sống cộng đồng, giữa thiên nhiên và con người. Đây không chỉ là nơi ghi dấu hành trình tu tập của các vị tổ Thiền phái Trúc Lâm mà còn là trường học thực tiễn cho đạo lý, tinh thần và đạo đức dân tộc Việt. Không gian di sản này còn đặc biệt bởi tính sống động và bền vững: mỗi năm, hàng triệu lượt người dân và du khách hành hương về Yên Tử, dự lễ hội Kiếp Bạc, thắp hương tại chùa Vĩnh Nghiêm, thực hành tín ngưỡng, nghe giảng pháp, tụng kinh và tham gia nghi lễ truyền thống. Việc thực hành, gìn giữ và lan tỏa các giá trị di sản không bị gián đoạn mà được duy trì bền bỉ, liên tục như một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Chính vì những giá trị toàn diện và độc đáo đó, UNESCO đã công nhận quần thể Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản Văn hóa Thế giới, dựa trên hai tiêu chí:
Tiêu chí (iii): Quần thể là minh chứng nổi bật về một truyền thống văn hóa độc đáo được hình thành từ sự kết hợp giữa nhà nước - tôn giáo - cộng đồng nhân dân. Truyền thống ấy đã góp phần định hình bản sắc dân tộc Việt, thúc đẩy sự hòa hợp xã hội và tinh thần độc lập tự cường trong suốt chiều dài lịch sử, đồng thời lan tỏa các giá trị hòa bình vượt ra khỏi biên giới quốc gia.
Tiêu chí (vi): Phật giáo Trúc Lâm là hiện thân cho ảnh hưởng toàn cầu của một tôn giáo bản địa hóa từ Việt Nam, tích hợp các dòng tư tưởng triết học phương Đông, góp phần xây dựng một xã hội khoan dung, nhân văn, hài hòa với tự nhiên. Tư tưởng Trúc Lâm phản ánh đúng tinh thần mà UNESCO đề cao: giáo dục, văn hóa vì hòa bình và phát triển bền vững.
Sự kết tinh của các giá trị vật thể, phi vật thể, tự nhiên và tâm linh trong một không gian văn hóa liên tỉnh, có tính hệ thống và biểu tượng cao như Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc, là một trường hợp hiếm có trong lịch sử di sản thế giới. Đó không chỉ là không gian tôn giáo, mà còn là hệ sinh thái di sản sống, nơi tâm linh và đời sống thường nhật của người Việt cùng song hành, tạo nên mạch chảy văn hóa xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử (còn gọi là Chùa Lân). Ảnh: TTXVN
Gìn giữ di sản cho hiện tại và tương lai
Hành trình đưa Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc trở thành Di sản Văn hóa Thế giới là một quá trình lâu dài, công phu và đầy tâm huyết. Trong suốt 13 năm chuẩn bị, hồ sơ đề cử đã được xây dựng và hoàn thiện nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Ngoại giao, các chính quyền địa phương cùng hàng trăm chuyên gia, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đây không chỉ là nỗ lực hành chính hay kỹ thuật, mà là biểu hiện sinh động của ý chí bảo vệ cội nguồn văn hóa dân tộc, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong việc gìn giữ di sản cho các thế hệ mai sau.
Việc được UNESCO công nhận là vinh dự lớn, nhưng cũng là trách nhiệm to lớn. Danh hiệu Di sản Văn hóa Thế giới không chỉ khẳng định giá trị nổi bật toàn cầu của quần thể, mà còn đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về bảo tồn lâu dài, quản lý khoa học và phát huy hiệu quả giá trị di sản, theo các nguyên tắc của Công ước UNESCO năm 1972. Di sản không thể chỉ bảo vệ bằng khẩu hiệu, mà đòi hỏi cơ chế phối hợp liên ngành, nguồn lực đầu tư ổn định, giám sát cộng đồng, và kế hoạch hành động bền vững gắn với phát triển địa phương. Di sản được vinh danh không dừng lại ở khía cạnh biểu tượng hay quảng bá du lịch. Trên thực tế, đây chính là đòn bẩy chiến lược để phát triển văn hóa bền vững, mở ra những cơ hội lớn trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương, đặc biệt là du lịch văn hóa, giáo dục di sản, sáng tạo nội dung văn hóa số, gắn với nâng cao sinh kế cộng đồng và xây dựng bản sắc vùng miền trong thời đại toàn cầu hóa. Đặc biệt, để di sản thực sự sống trong lòng nhân dân, cần có sự tham gia chủ động và trách nhiệm của cộng đồng địa phương - những người không chỉ là “người canh giữ” di sản, mà còn là chủ thể sáng tạo và truyền thừa.
Có thể nói, việc Quần thể Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới chính là một minh chứng hùng hồn về giá trị trường tồn của bản sắc Việt Nam. Di sản không chỉ thuộc về quá khứ, mà chính là mạch nguồn sống trong hiện tại, là nền tảng tinh thần cho tương lai, và là thông điệp mà Việt Nam tự tin gửi gắm ra thế giới: Một quốc gia gìn giữ di sản không chỉ để tưởng nhớ, mà để kiến tạo tương lai nhân văn, hài hòa và bền vững./.